Bức thư kỳ lạ của một liệt sỹ, càng nể phục người vợ được làm vợ đúng 7 ngày, 7 đêm

Như linh tính, biết mình sẽ hy sinh, người lính đó đã gửi về gia đình một bức thư nói rõ nơi chôn cất. Sau bao nhiêu năm, lần theo thông tin ấy, gia đình đã tìm được hài cốt của anh.

Biết trước cái chết

Đợt vào thăm thành cổ Quảng Trị, tôi nhớ lời dặn của những người lính: Hãy bước nhẹ trên từng vạt cỏ, bởi nơi ấy có xương máu thân thể của những người lính đã ngã xuống. Như sợ các anh đau, chúng tôi luôn bước thật nhẹ. Nhưng xúc động hơn, khi chúng tôi vào thăm khu di tích thành cổ Quảng Trị được đọc một bức thư. Bức thư đã khiến tôi và bao nhiêu người khác rơi lệ. Bức thư của một người lính đã hy sinh được anh viết trước khi mất 3 tháng giữa những ngày bom đạn khốc liệt nhất ở Quảng Trị.

Anh là liệt sỹ Lê Văn Huỳnh, ở xã Lê Lợi (Kiến Xương – Thái Bình). Bức thư đó anh viết để gửi cho người mẹ già đang mong ngóng đợi anh và cho người vợ cưới được 7 ngày đã phải xa chồng. Nội dung thư viết:

“Quảng Trị, ngày 11-9-1972

Toàn gia đình kính thương!

Hôm nay con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng, phòng khi đã “đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất”, thì gia đình khỏi thấy đó là điều đột ngột.

Mẹ kính mến! Thư này tới mẹ là con đã đi xa rồi. Chắc mẹ đau buồn lắm. Lớn lên trong vòng tay mẹ từ khi còn trứng nước, chưa kịp báo đáp công ơn sinh thành, giờ con đi xa là để lại cho mẹ nỗi buồn nhất trên đời.

Con rất hiểu đời mẹ đã đau khổ nhiều, nhưng mẹ hãy lau nước mắt để sống đến ngày đón mừng chiến thắng. Con đi, mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu. Coi như con lúc nào cũng nằm bên mẹ. Coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau…

Em yêu thương. Mọi lá thư đến với em đều là nguồn động viên em khi xa anh. Song, lá thư này đến tay em sẽ là nỗi buồn lớn nhất. Chúng ta sống với nhau chưa được bao lâu, thì chiến tranh đã cướp đi của em biết bao yêu thương, trìu mến. Người ta lấy chồng thì được chiều chuộng mọi điều. Em chưa được hưởng diễm phúc ấy đã phải xa anh….

Anh biết em sẽ không đọc nổi lá thư này, nhưng em hãy gạt nước mắt cho đời trẻ lại. Anh chỉ mong em khỏe, yêu đời, nếu có điều kiện, hãy cứ đi bước nữa, vì em còn trẻ lắm. Anh chỉ mong em sẽ luôn nhớ đến anh và hãy thắp hương cho anh vào ngày giỗ anh. Hãy là người con dâu hiếu thảo của mẹ, là người em ngoan của các anh chị anh…

Sau này hòa bình lập lại, nếu có điều kiện vào Nam, hãy mang hài cốt anh về. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hy sinh khi đưa hàng qua sông vào ngày 2-1-1973. Từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn Nhan Biều. Em cứ đi đến đó, tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Đến đó sẽ tìm thấy tấm bia ghi tên anh đục trên mảnh tôn. Mộ anh ở đó… Em sẽ đọc lá thư này cho mọi người trong gia đình nghe trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời chúc sức khỏe tất cả những người quen thuộc trên quê hương trong buổi truy điệu lịch sử này….

Chào mẹ, chào em, chào tất cả gia đình và làng xóm quê hương.

Ký tên

Lê Văn Huỳnh…..”.

Lá thư này được liệt sỹ Lê Văn Huỳnh viết vào một ngày tháng 9-1972, trước ngày anh hy sinh hơn 3 tháng. Không ai hiểu tại sao anh biết trước cái chết của mình, biết tường tận nơi mình sẽ nằm xuống…

7 ngày làm vợ

Tôi quyết định tìm về Thái Bình để gặp “người phụ nữ đợi chờ” trong bức thư của người liệt sỹ. Bà vừa bước sang tuổi 65, tên là Đặng Thị Xơ – người cùng xã với liệt sỹ Huỳnh. Mối tình đẹp của hai người đã trở thành huyền thoại ở xã Lê Lợi cho đến hôm nay. Ngày ấy, chàng sinh viên ĐH Xây dựng vừa đẹp trai lại thông minh phải lòng một cô gái trẻ đẹp nhất làng. Trong những người đàn ông theo đuổi chị, chị chỉ yêu và chọn anh. Gia đình hai bên bao nhiêu lần giục cưới nhưng chị đều lần lữa vì sợ ảnh hưởng đến việc học hành của anh.

Tết dương lịch năm 1972, anh từ Hà Nội trở về thăm nhà và thông báo với chị: anh sắp lên đường nhập ngũ. Vậy là họ quyết định cưới nhau trong vài ngày nghỉ ngắn ngủi đó. Một đám cưới nho nhỏ nhưng ấm cúng diễn ra vào ngày 2-1-1972. Sau đám cưới, anh được ở nhà 3 ngày rồi tiếp tục lên trường. Tết Nguyên đán năm đó, anh được nghỉ và về nhà thêm 3 ngày nữa là 6. Trước ngày lên đường nhập ngũ, anh tranh thủ thăm nhà được 1 ngày rồi vĩnh viễn không bao giờ trở về. Tính từ ngày cưới cho đến lúc anh hy sinh, vợ chồng anh chị ở bên nhau trọn vẹn được 7 ngày, 7 đêm.

Những ngày 2-1

Lần cuối cùng gặp nhau, anh đã nắm tay chị dặn dò: “Mình là vợ chồng. Anh đi chiến đấu, sau này ngộ nhỡ anh trở về không lành lặn, xin em đừng hắt hủi anh, em nhé”. Chị nghe anh nói mà ứa nước mắt: “Dù anh có thế nào đi chăng nữa, em vẫn là vợ của anh trọn đời”.

Nhưng chị không bao giờ ngờ rằng, ngay cả việc được đón anh trở về, dù không lành lặn, cũng trở thành một ước mơ quá đỗi xa vời đối với cuộc đời chị. Sau ngày nhập ngũ, anh theo đơn vị vào chiến trường Quảng Trị, chiến trường khốc liệt nhất những năm 1972-1973. Và anh đã mãi mãi nằm lại nơi đó.

Trong những lá thư anh gửi về từ chiến trường, bao giờ cũng có một phần gửi mẹ, một phần gửi cho các anh chị trong nhà, một phần viết riêng cho chị. Chị nhận được thư anh đều đặn mỗi tháng. Nhưng sau lá thư tháng 12-1972, ông bưu tá vẫn đạp xe mang thư về làng không bao giờ dừng lại ở trước cửa nhà chị nữa. Từ đó, chị mất tin anh.

Trái tim người vợ mách bảo chị về những điều chẳng lành, những điều mà chị không dám nói ra với bất cứ ai nhưng vẫn hiểu nó đang ngày càng trở nên hiện thực đối với cuộc đời chị.

Bà Đặng Thị Xơ bảo: “Lúc này tôi nhớ đến lời anh viết trong bức thư “hãy gạt nước mắt cho đời trẻ lại” và cảm nhận như thấy mình và anh trong ngày mới cưới. Tôi ôm hài cốt anh, bao nhiêu năm xa cách, tôi lại được ôm anh. Chỉ có điều, tôi khóc nhiều hơn, còn anh thì lặng lẽ. Tôi biết rằng, yêu anh – yêu một người chiến sỹ, yêu một liệt sỹ là chấp nhận sống cuộc đời chờ đợi”.

Sau Tết Nguyên đán năm đó, giấy báo tử của anh về đến địa phương. Sợ chị không chịu nổi cú sốc đó, người chị dâu khi đó đang làm ở xã, đã xin hoãn báo tử 3 tháng. Đến tháng 5-1973, giấy báo tử mới chính thức được gửi về nhà chị, cùng toàn bộ quân tư trang của anh. Anh hy sinh vào ngày 2-1-1973, đúng kỷ niệm tròn 1 năm ngày cưới. Và những ngày 2-1 sau này là những ngày chị buồn nhất, khóc nhiều nhất và cũng thương anh thật nhiều. Nhưng thương anh bao nhiêu, chị tự hào bấy nhiêu. Tự hào vì anh là người lính dũng cảm, tự hào vì anh đã chết vì lý tưởng cao đẹp.

Bức thư viết tháng 9-1972 nhận được như lời trăng trối. Nhưng mãi đến năm 2002, chị mới có thể lên đường và đúng như bức thư anh viết, mộ anh ở đó, ở thôn Nhan Biều, trên mộ có một tấm tôn ghi rõ tên anh: Liệt sỹ Lê Văn Huỳnh.

Theo ANTD

"Xin lưu ý rằng, các thông tin được cung cấp đã được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn khác nhau, và nên được coi là một nguồn tài liệu tham khảo chính xác."